Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã phải ứng phó với số lượng lớn các ca mắc sởi. Cùng thời gian đó, Tiến sĩ Ann Burton - chuyên gia y tế công cộng toàn cầu người Úc, và Tiến sĩ Madeleine Marsland - nhà dịch tễ học y khoa, được Mạng lưới Cảnh báo và Ứng phó Dịch bệnh Toàn cầu (GOARN) điều động đến công tác và làm việc ngắn hạn tại Việt Nam.
Nhiệm vụ của họ trong khuôn khổ triển khai của mạng lưới GOARN của Tổ chức Y tế Thế giới là hỗ trợ công tác ứng phó với bệnh sởi đang diễn ra tại Việt Nam, cũng như đóng góp cho việc chuẩn bị chiến lược quốc gia tiến tới loại trừ bệnh sởi.
Thông thường làm việc tại Trung tâm Quốc gia về Nghiên cứu và Giám sát Tiêm chủng của Úc (NCIRS), hai nhà dịch tễ học là Tiến sĩ Ann Burton (bên trái) và Tiến sĩ Madeleine Marsland đã phối hợp cùng các cán bộ Bộ Y tế Việt Nam trong khuôn khổ nhiệm vụ do Mạng lưới Cảnh báo Ảnh: WHO / Chi Nguyễn
Trong những thập kỷ qua, Việt Nam đã phải đối mặt với sự bùng phát trở lại của bệnh sởi với chu kỳ khoảng 5 năm một lần. Trong năm 2024 và 2025, số lượng trẻ em mắc bệnh sởi đặc biệt cao do tỷ lệ tiêm chủng thường xuyên cho trẻ em – vốn luôn ở mức cao tại Việt Nam – đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 năm qua, sau những gián đoạn do đại dịch COVID-19 và tình trạng thiếu hụt vắc xin. Sự thiếu hụt miễn dịch này khiến người dân dễ bị mắc bệnh sởi, một trong những loại vi rút có mức độ lây nhiễm cao nhất. Bệnh sởi có thể đặc biệt nghiêm trọng đối với trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi.
Tỷ lệ tiêm chủng đã phục hồi đáng kể nhờ có sự lãnh đạo quyết liệt của Chính phủ, cùng với những nỗ lực to lớn của các cán bộ nhân viên y tế, sự ủng hộ của các bậc phụ huynh và toàn cộng đồng. Trong năm 2024, Việt Nam đã đạt tỷ lệ tiêm chủng 99% đối với mũi đầu tiên của vắc xin bạch hầu, uốn ván và ho gà, tăng từ 80% vào năm 2023. Trên thực tế, tỷ lệ tiêm chủng tại Việt Nam không chỉ phục hồi trở lại ở mức cao trước đại dịch COVID-19 mà còn vượt qua tỷ lệ được ghi nhận vào năm 2019.
Bên cạnh những thành quả đó, vẫn còn đó những thách thức trong tiêm chủng.
Trong quá trình công tác tại Việt Nam, cả hai chuyên gia, đều là những người đến từ Trung tâm Nghiên cứu và Giám sát Tiêm chủng Quốc gia Úc (NCIRS), không chỉ hỗ trợ ứng phó ngay lập tức mà còn đưa ra các khuyến nghị giúp Việt Nam chuẩn bị cho tương lai.
Một điểm nhấn trong chương trình là buổi gặp gỡ các cán bộ y tế cơ sở, chẳng hạn như tại Trạm Y tế xã Mỹ Lộc. Ảnh: WHO
Hoạt động của họ bao gồm kết hợp việc rà soát tài liệu, phân tích dữ liệu, phỏng vấn hơn 60 bên liên quan và đi thực địa tại các tỉnh.
Tiến sĩ Burton cho biết: “Chuyến công tác này đã nhắc nhở tôi rằng những thành quả đã đạt được đôi khi có thể mong manh đến mức nào”.
“Bệnh sởi vẫn là một mối đe dọa về khả năng lây nhiễm nhanh chóng và dễ lây lan. Vì vậy, bên cạnh việc duy trì tỷ lệ tiêm chủng thường xuyên cao trên khắp cả nước và tại mọi cộng đồng, Việt Nam cần nâng cao năng lực nhằm nhanh chóng xác định và ứng phó với bất kỳ trường hợp mắc bệnh mới nào. Những bước này rất quan trọng để giữ an toàn cho trẻ em và giúp Việt Nam đạt được mục tiêu loại trừ bệnh sởi”, bà nói.
Phối hợp với Bộ Y tế và các đối tác khác, dựa trên bằng chứng toàn cầu và khu vực, hai chuyên gia đã đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng cường tỷ lệ tiêm chủng thường xuyên, tăng cường hệ thống giám sát và ứng phó với dịch sởi và rubella.
Tiến sĩ Marsland cho biết các khuyến nghị này được điều chỉnh phù hợp với bối cảnh tại Việt Nam.
“Chính sự am hiểu địa phương và cam kết mạnh mẽ tại cơ sở đã thực sự định hình các khuyến nghị của chúng tôi – bao gồm cả kiến thức chuyên môn của các chuyên gia Bộ Y tế, những người đã hỗ trợ và phối hợp xây dựng kế hoạch nhiệm vụ của GOARN. Được phối hợp làm việc chặt chẽ với đội ngũ y tế là một vinh dự,” Tiến sĩ Marsland chia sẻ. Việc cử Tiến sĩ Marsland tham gia nhiệm vụ này đã nhận được sự hỗ trợ hào phóng từ Bộ Ngoại giao và Thương mại của Chính phủ Úc (DFAT)
Tiến sĩ Marsland cho biết một điểm nhấn trong chuyến công tác của bà là chuyến đến thăm các trạm y tế cơ sở.
“Tôi đặc biệt trân trọng khoảng thời gian chúng tôi ở Thanh Hóa, một tỉnh ven biển miền Bắc. Tại đây, chúng tôi đã đến thăm các bệnh viện, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật, và các trạm y tế xã. Sự tận tâm của các đội ngũ y tế địa phương thật đáng ghi nhận. Tất cả những người chúng tôi gặp đều mong muốn học hỏi kinh nghiệm từ đợt bùng phát dịch bệnh gần đây và phòng ngừa cho đợt bùng phát tiếp theo”.
Tiến sĩ Marsland rất biết ơn khi được ở lại Việt Nam trong một thời gian ngắn để vận dụng những khuyến nghị ban đầu của họ nhằm hỗ trợ việc chuẩn bị xây dựng chiến lược tiêm chủng quốc gia, và chiến lược tiêm chủng quốc gia về phòng chống, bệnh sởi và rubella.
Trưởng đại diện WHO Việt Nam, Tiến sĩ Angela Pratt, cho biết: “Sự ứng phó của Việt Nam nhằm khôi phục tỷ lệ tiêm chủng thường xuyên cho trẻ em trong hai năm qua là vô cùng ấn tượng. Tiếp nối thành công này, WHO rất vui mừng được hỗ trợ thông qua việc tiếp nhận hai chuyên gia do mạng lưới GOARN cử sang công tác, với lời cảm ơn chân thành đến Chính phủ Úc, để giúp Việt Nam lập kế hoạch loại trừ bệnh sởi, vì một tương lai an toàn hơn và khỏe mạnh hơn.”
Giáo sư Kristine Macartney, Giám đốc NCIRS, cho biết: “Việc điều động Tiến sĩ Burton và Tiến sĩ Marsland sang công tác ngắn hạn tại Việt Nam thông qua GOARN để hỗ trợ ứng phó dịch sởi là minh chứng cho thấy cam kết và chuyên môn của NCIRS trong việc hợp tác hỗ trợ các quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Công việc của họ không chỉ đóng góp vào những nỗ lực y tế công cộng quan trọng tại Việt Nam mà còn làm phong phú thêm NCIRS thông qua những hiểu biết và kinh nghiệm mà họ có được”.
“Việc triển khai các nhiệm vụ ngắn hạn thông qua mạng lưới GOARN mang đến cho nhân viên của chúng tôi những cơ hội đặc biệt để hợp tác quốc tế, tăng cường kỹ năng ứng phó dịch bệnh và thu về những kiến thức quý báu, giúp nâng cao năng lực tiêm chủng và giám sát ở cấp quốc gia và khu vực”.
Ngoài ra, WHO còn hỗ trợ tăng cường công tác phòng, chống sởi tại Việt Nam thông qua mua sắm khẩn cấp và cung cấp hơn 1 triệu liều vắc-xin sởi-rubella, với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) và các nhà tài trợ khác. Đây là một phần của chiến dịch ứng phó với dịch bệnh bùng phát và các hoạt động tiêm chủng bổ sung tại các khu vực có nguy cơ cao nhất.
Giới thiệu về GOARN
Đến nay, GOARN có hơn 320 đối tác trên toàn cầu, với 87 đối tác ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Sứ mệnh của GOARN là cung cấp hỗ trợ kỹ thuật đa ngành nhanh chóng cho các cộng đồng và cơ quan y tế trên toàn cầu để ứng phó với dịch bệnh. Các đối tác của GOARN đại diện cho nhiều tổ chức, bao gồm các bộ y tế, viện y tế công cộng quốc gia, mạng lưới y tế và giám sát. Để biết thêm thông tin, vui lòng truy cập trang GOARN trên trang web của WHO.