Bác sỹ Lý Thị Nhiêu, cán bộ Trạm Y tế xã phụ trách chương trình sốt rét, vừa hoàn thành xong ca đỡ đẻ sáng sớm tại Trạm lại tiếp tục tham gia đoàn giám sát của Viện Sốt rét - Kí Sinh trùng - Côn trùng Trung ương (Viện SR-KST-CT TW) tại xã Pa U – một xã hẻo lánh của tỉnh Lai Châu vùng Tây Bắc Việt Nam. Nhiệm vụ của đoàn công tác là lấy mẫu máu để phát hiện sốt rét trong cộng đồng. Với vai trò là quyền Trưởng Trạm Y tế Pa U nên việc trực tại trạm 24/7 đã trở thành công việc hàng ngày của bác sỹ Nhiêu. Bác sỹ Nhiêu, 36 tuổi, đã có thâm niên công tác tại Trạm Y tế này hơn mười năm, và dành trọn thời gian cống hiến cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân tại tỉnh nhà – một tỉnh miền núi giáp ranh biên giới với Trung Quốc.
Bác sỹ Nhiêu được phân công phụ trách chương trình sốt rét từ tháng 1 năm 2021. Đây là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu trong hàng loạt nhiệm vụ của nhân viên y tế, bao gồm quản lý chung Trạm Y tế, chương trình thai sản, và quản lý các chương trình y tế công cộng như điều trị thay thế nghiện chất bằng methadone, dự phòng HIV và sức khỏe sinh sản. Là cán bộ y tế phụ trách sốt rét, bác sỹ Nhiêu đã tham gia hỗ trợ đoàn công tác của Viện Sốt rét - Kí Sinh trùng - Côn trùng Trung ương tổ chức các điểm xét nghiệm sốt rét. Bản thân bác sỹ Nhiêu cũng tự mình hàng tháng đi giám sát và xét nghiệm định kỳ tại các thôn/bản nơi bệnh sốt rét đang lưu hành. Do thời gian đi các thôn mất gần 3 tiếng đồng hồ bằng xe máy nên mỗi lần đi ngoại tuyến này đều kết hợp các nhiệm vụ khác như tiêm chủng thường quy cho trẻ em và các phụ nữ mang thai.
PhamChị Lý Thị Nhiêu, nhân viên y tế tại Trạm Y tế xã Pa U, tỉnh Lai Châu, Việt Nam © WHO/L. Pham
Hôm nay, điểm đến của bác sỹ Nhiêu và đoàn giám sát trung ương là thôn Xã Hồ hẻo lánh. Lối vào thôn Xã Hồ chỉ là con đường đất độc đạo với nhiều khúc cua tay áo và bùn đất lầy lội. Xã Hồ là thôn nằm trong những khu vực hẻo lánh nhất Việt Nam và hầu như chưa bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Đây cũng là nơi đoàn công tác của Viện Sốt rét - Kí Sinh trùng - Côn trùng Trung ương thường xuyên tới giám sát hỗ trợ bởi đây là khu vực bệnh sốt rét đang lưu hành và ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân La Hủ bản địa. Tập quán du canh du cư cộng với điều kiện sống nghèo khổ và tỷ lệ biết chữ thấp khiến người dân nơi đây đặc biệt tổn thương với dịch sốt rét.
Trên thế giới, phụ nữ và trẻ em có nguy cơ cao nhất mắc sốt rét. Tuy nhiên, tại khu vực tiểu vùng Mê-Kông mở rộng, tỷ lệ sốt rét ở nam giới lại cao nhất. Nam giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét vì họ thường làm việc ở các khu vực có nguy cơ cao như vùng rừng, hầm mỏ hoặc đồn điền tại các nơi sốt rét đang lưu hành. Năm 2021, nam giới chiếm 78% số ca mắc sốt rét ở Việt Nam. Việc phụ nữ tích cực tham gia vào các chương trình phòng chống sốt rét càng nâng cao hiệu quả thiết kế và triển khai các can thiệp như sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động dự phòng, kiểm soát vector và điều trị bệnh. Kinh nghiệm của tiểu vùng Mê-Kông mở rộng cho thấy nếu đối tượng đích của hoạt động huy động sự tham gia của cộng đồng là phụ nữ thì sẽ rất hiệu quả trong việc triển khai các hoạt động điều trị, kiểm soát vector và dự phòng sốt rét. Thực tế này phần nào liên quan và giải thích tại sao phụ nữ thường là người chăm sóc chính cho người bị mắc sốt rét trong gia đình.
Chị Lý Thị Nhiêu, nhân viên y tế, đang thu thập số liệu từ người dân làng được xét nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét. © WHO/L. Pham
Mặc dù Việt Nam đã có những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc giảm tỷ lệ lưu hành sốt rét nhưng một số khu vực như tỉnh Lai Châu vẫn ghi nhận số ca bệnh sốt rét do P. vivax tăng đột biến. Thôn Xã Hồ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Năm 2021, đã phát hiện 16 ca trên tổng số 405 người dân của thôn Xã Hồ. Tất cả các ca mắc đều do P. vivax và đều là trẻ em ở độ tuổi đi học, một hiện tượng bất thường ở khu vực tiểu vùng Mê-Kông mở rộng. Mặc dù bệnh sốt rét do P. vivax được đánh giá là ít nguy hiểm hơn các thể bệnh khác của sốt rét nhưng khả năang tái phát sau điều trị lại là mối đe dọa gây bùng phát dịch. Kí sinh trùng có thể ủ bệnh âm thầm trong gan người bệnh trong nhiều năm, thậm chí hàng thập kỉ, không gây triệu chứng trong khi vẫn tiếp tục nhân lên. Do vậy, việc phát hiện ca bệnh chủ động, tức là sàng lọc chủ động kí sinh trùng và điều trị ngay, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc loại trừ bệnh sốt rét.
Phác đồ điều trị 14 ngày chứa primaquine là phương pháp chính để điều trị tiệt căn P. vivax, đồng thời giúp ngăn ngừa bệnh tái phát. Tuy nhiên, việc không tuân thủ điều trị vẫn còn là thách thức lớn, đặc biệt trong cộng đồng dân tộc La Hủ, nơi nhận thức của người dân về bệnh sốt rét còn rất hạn chế. Đây cũng chính là lý do mà vai trò chủ động của nhân viên y tế cộng đồng như chị Nhiêu trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Khi ca bệnh được phát hiện, người bệnh được cấp thuốc điều trị và báo cáo ngay cho Viện Sốt rét-Kí Sinh trùng - Côn Trùng Trung ương. Khi người bệnh bắt đầu điều trị, nhân viên y tế như bác sỹ Nhiêu thường xuyên tới thăm hỏi, động viên và theo dõi nhằm đảm bảo người bệnh uống thuốc đủ liệu trình. “Khi trời mưa, tôi không có lựa chọn nào khác là phải nghỉ qua đêm tại thôn. Tôi không thể vắng mặt quá lâu được vì còn rất nhiều việc đang chờ ở Trạm,” chị Nhiêu tâm sự.
Thực tế, công việc còn khó khăn gấp bội so với việc tiếp cận cộng đồng xa xôi hẻo lánh này khi phải giải thích để người dân địa phương hiểu rõ sự cần thiết của việc uống thuốc đủ liệu trình, một phần của khó khăn này chính là rào cản ngôn ngữ giữa nhân viên y tế và người dân địa phương. Sau khi hết sốt, một số người bệnh từ chối tiếp tục dùng thuốc vì thấy bất tiện và mất thời gian. Trước tình huống đó, bác sỹ Nhiêu đã nhanh nhạy tìm cách thuyết phục người dân bằng cách làm việc cùng với các cá nhân mà người dân làng tin tưởng như trưởng bản để hiểu và truyền đạt bằng ngôn ngữ của họ, đồng thời thông qua chính quyền địa phương để thuyết phục người dân. “Có nhiều trường hợp tôi phải tới thuyết phục nhiều lần. Họ thường bỏ trị sau khi uống thuốc được vài ngày, thế là lại phải bắt đầu từ đầu. Tôi không thể mất kiên nhẫn được,” chị Nhiêu chia sẻ.
Chị Vũ Thị Ánh Tuyết, kĩ thuật viên xét nghiệm cao cấp tại PXN của Viện SR-KST-CT Trung ương. © WHO/L. Pham
Cùng đi với bác sỹ Nhiêu là chị Vũ Thị Ánh Tuyết, kĩ thuật viên cao cấp của Khoa Dịch tễ, Viện Sốt rét-Kí Sinh trùng - Côn Trùng Trung ương. Nối bước cha của mình, chị Tuyết đã về làm việc cho Viện Sốt rét-Kí Sinh trùng - Côn Trùng Trung ương ngay khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Y Đặng Văn Ngữ - ngôi trường vinh dự mang tên một bác sỹ y khoa tài năng – người đã có công rất lớn vào sự nghiệp phòng chống sốt rét ở Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh. Sau hai thập kỉ bền bỉ với công việc sàng lọc sốt rét tại các vùng dịch lưu hành ở khu vực vùng sâu, vùng xa của Việt Nam, chị Tuyết nhận thấy chìa khóa để loại trừ bệnh sốt rét thành công chính là nâng cao nhận thức của người dân. Chị Tuyết vẫn còn nhớ như in khi tới làm việc tại các thôn sâu sau cánh rừng hồi đầu những năm 2010 khi mà hơn nửa người dân trong thôn bị sốt rét. So với thời kỳ đó, tỷ lệ mắc sốt rét trên toàn quốc đã giảm ngoạn mục nhờ những nỗ lực trong việc kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét. Số ca mắc đã giảm 90% trong giai đoạn 2018 - 2021.
Mặc dù dành phần lớn thời gian nghiên cứu, làm tiêu bản xét nghiệm trong phòng xét nghiệm nhưng chị Tuyết vẫn thường tham gia các đoàn giám sát của Viện Sốt rét-Kí Sinh trùng - Côn Trùng Trung ương để tìm kiếm và phát hiện thêm các ca bệnh ở các thôn/bản xa xôi như thôn Xã Hồ. Là kĩ thuật viên cao cấp, chị Tuyết nhận thức rất rõ vai trò quan trọng của các phân tích, xét nghiệm tiêu bản để phát hiện bệnh sốt rét. Tại các địa phương như thôn Xã Hồ với tỷ lệ lưu hành các ca bệnh không triệu chứng cao thì các xét nghiệm chẩn đoán nhanh có thể không phát hiện ra bệnh. “Nếu không phát hiện thấy kí sinh trùng tại thực địa, chúng tôi phải soi lam kính trong thời gian sớm nhất khi quay trở lại phòng xét nghiệm [Hà Nội]. Nếu phát hiện có kí sinh trùng thì sẽ thông báo ngay cho nhân viên y tế địa phương để có can thiệp kịp thời,” chị Tuyết cho hay. Các can thiệp này giúp ngăn ngừa các ổ dịch kí sinh trung đồng thời ngăn chặn các ca tái nhiễm.
Nay Hồ Quý, 9 tuổi, con gái của một nhân viên y tế thôn bản ngồi bên giường có màn chống muỗi tại nhà mình ở thôn Gao, tỉnh Phú Yên, Việt Nam. © WHO/L. Pham
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức như xuất hiện nhiều ca nhiễm bệnh không triệu chứng, khoảng cách từ nhà người bệnh tới cơ sở y tế quá xa, và không tuân thủ điều trị, nhưng chị Tuyết vẫn hy vọng dù còn dè dặt về một tương lai không còn bệnh sốt rét. Chị Tuyết cho rằng cộng đồng sống bám trụ vào rừng sẽ là đối tượng hưởng lợi đầu tiên khi sốt rét được loại trừ hoàn toàn vì sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và năng suất lao động cho họ. “Chỉ số hiệu quả nhất về sự cải thiện chính là nhận thức của người dân,” chị Tuyết nhấn mạnh. Nhờ những nỗ lực truyền thông bằng tiếng bản địa nên kiến thức về phòng chống bệnh sốt rét của người dân La Hủ đã được cải thiện đáng kể. Ví dụ, hiện nay mỗi hộ gia đình đều có ít nhất một màn ngủ chống muỗi. Theo chị Tuyết, kết quả này là nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của nhân viên y tế như chị Nhiêu và các nhân viên khác của Trạm Y tế. Nếu không có sự phối hợp, sự bền bỉ và tâm huyết của nhân viên y tế thì những can thiệp phòng chống sốt rét ở các khu vực vùng sâu vùng xa của Việt Nam không thể có được thành quả như ngày hôm nay: "Họ xông pha tuyến đầu tại các vùng dịch và là động lực hy sinh đằng sau sự thành công của mọi ca bệnh, của mọi người bệnh."
Tại Việt Nam, WHO phối hợp với Viện Sốt rét-Kí Sinh trùng - Côn Trùng Trung ương và các đối tác nhằm hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực loại trừ bệnh sốt rét. Hoạt động phòng chống sốt rét của WHO tại Việt Nam và Chương trình Loại trừ bệnh Sốt rét khu vực Mê Kông của WHO được thực với sự tài trợ của các tổ chức như Quỹ toàn cầu về phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét, Sáng kiến của Tổng thống Hoa kỳ về phòng chống Sốt rét, và Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates. Biên tập phỏng vấn bởi: Ha Dao và Linh Pham.